20+ Tóm tắt Vợ nhặt (ngắn nhất)

20+ Tóm tắt Vợ nhặt (ngắn nhất) – Tổng hợp tóm tắt các tác phẩm Ngữ văn lớp 12 hay, ngắn nhất giúp học sinh nắm vững nội dung tác phẩm.-20+ Tóm tắt Vợ nhặt (ngắn nhất)

20+ Tóm tắt Vợ nhặt (ngắn nhất)



Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt hay, ngắn nhất giúp bạn nắm được nội dung chính của văn bản.

20+ Tóm tắt Vợ nhặt (ngắn nhất)

Bài giảng: Vợ nhặt – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 1

Nạn đói Ất Dậu năm 1945 xảy ra khiến hơn hai triệu người chết từ Trung Kì trở ra như ngả rạ ngoài đồng. Sự kiện lịch sử ấy đã đi vào trong văn chương qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Năm đói ấy người chết thây ma đầy đường, người sống thì cũng vật vờ, dặt dẹo. Ở xóm ngụ cư nọ, có anh cu Tràng thô kệch, xấu xí làm nghề đẩy xe bò kiếm miếng ăn qua ngày nuôi mẹ già trong túp lều nho nhỏ. Trong một lần đi lên tỉnh anh gặp thị-một cô gái đói rách, gầy hốc hác. Lần thứ hai gặp lại anh buông câu hò nửa thật nửa đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lên đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Chỉ với lời bông đùa ấy cùng bốn bát bánh đúc Tràng mời thị ăn mà anh nhanh chóng có vợ. Thị theo Tràng về nhà với cái vẻ rụt rè, ngại ngùng khiến cho tất cả người dân xóm ngụ cư bất ngờ. Ngạc nhiên nhất vẫn là bà cụ Tứ khi có người con gái theo con trai về và còn chào mình là u, nghe Tràng nói thì đã hiểu ra cơ sự. Giữa nạn đói khi ấy mà con trai có vợ khiến bà vừa mừng vừa lo. Anh cu Tràng có vợ khiến cho mọi thứ và mọi người thay đổi. Trong họ đều cảm thấy có một cái gì đó tươi mới hẳn lên. Một đám cưới bình dị đã được diễn ra với bữa cơm đầu đón nàng dâu mới là nồi cháo lõng bõng và bát cháo cám nghẹn đắng ở cổ nhưng trong đó có cả tình yêu thương, sự bao dung và niềm tin mà người mẹ già dành cho đôi vợ chồng trẻ. Kết thúc tác phẩm với âm thanh của tiếng trống thúc thuế, hình ảnh quạ đen bay trên trời, thị nói về chuyện quân Việt Minh phá kho thóc Nhật và lúc ấy trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi/ Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt/ Ngòi bút Kim lân tưởng như đùa như khóc/ Đói quắt quay nhưng tha thiết con người” tác phẩm đã để lại cho ta giá trị sâu sắc về tình người và niềm tin vào tương lai tươi sáng trong cuộc sống.

20+ Tóm tắt Vợ nhặt (ngắn nhất)

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 2

Nhân vật chính trong truyện là Tràng – một người đàn ông xấu xí, dáng người thô kệch, ế vợ, lại dở hơi, sống ở xóm ngụ cư. Tràng làm nghề kéo xe bò kiếm sống qua ngày nuôi mẹ già – bà cụ Tứ. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã nhặt được vợ một cách dễ dàng chỉ với một vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Trên đường đưa vợ về nhà, cả xóm ngụ cư tò mò, ngạc nhiên khiến anh thích chí, mặt cứ vênh lên tự đắc rất hãnh diện, sung sướng. Khi thấy Tràng ra tận đầu ngõ đợi chờ, bà cụ Tứ phấp phỏng, linh cảm có việc quan trọng bất thường. Bà ngạc nhiên khi thấy trong nhà có một người đàn bà lại chào bà bằng u. Khi được Tràng giới thiệu người đàn bà này là vợ của mình, bà lão cúi đầu, nín lặng, chấp nhận và hiểu ra nhiều điều. Một mặt bà vui mừng vì con đã có vợ, một mặt bà buồn tủi, đồng cảm cho số kiếp nghèo khổ và lo lắng về tương lai. Nước bà cứ chảy xuống ròng ròng.

Sáng hôm sau, Tràng thức dậy thấy trong người êm ái lửng lơ như từ giấc mơ đi ra. Nhà cửa, sân vườn đã được dọn dẹp quét tước gọn gàng sạch sẽ. Tràng thấy vui và cảm thấy mình phải có bộ phận với vợ, có trách nhiệm với gia đình hơn. Bữa cơm đón nàng dâu mới chỉ có nồi cháo cám, chè khoán, đĩa muối và rau chuối thái rối và đắng chát. Trong bữa cơm, bà cụ chỉ toàn kể những chuyện làm ăn vui vẻ, vợ Tràng kể cho anh nghe về Việt Minh.

Bỗng có tiếng trống thúc thuế ngoài đình đã làm trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 3

Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi trên cả nước, người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là chàng trai xấu xí thô kệch, ế vợ, Tràng sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với một cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngu cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng) cũng không nổi bàng hoàng ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa cháo kèm theo là nồi cháo cám bà cụ tứ dành cho nàng dâu nhân bữa cơm đón nàng dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.

20+ Tóm tắt Vợ nhặt (ngắn nhất)

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 4

Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư. Một ngày kia, trong buổi chiều, trong không khí thê thảm, ảm đạm vì đói, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh – người vợ nhặt. Tràng đã bắt gặp vợ tương lai của mình đang cảnh đói rách, mời ăn bốn bát bánh đúc kèm theo lời nói đùa vui. Bà mẹ già của Tràng đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm. Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ chút đùa đến thoáng lo, bây giờ Tràng thấy niềm vui thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán.

Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc anh hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phất phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 5

Chuyện kể về số phận của một chàng trai với cái tên là Tràng. Trong thời buổi loạn lạc, nạn đói hoành hành, đó là thời điểm của những năm 1945 đã làm hơn 2 triệu người chết, đâu đâu cũng là sự chết chóc. Trong hoàn cảnh như vậy mà chàng trai tên là Tràng lại cưới vợ (hay nói đúng hơn là nhặt được vợ). Nhân vật Tràng ở đây được tác giả miêu tả là một anh chàng rất xấu trai, ăn nói cộc lốc, thô kệch, ấy thế mà lại lấy được vợ. Khi nghe tin anh Tràng cưới vợ thì cả xóm nơi Tràng ở đều ngạc nhiên và lo lắng cho anh, đặc biệt là mẹ của anh mà mọi người gọi “bà là bà cụ Tứ” lúc này lúc vui lúc buồn không biết tại sao? Khi con trai của Bà cưới vợ mà Bà chẳng có gì hơn ngoài lời chúc đến vợ chồng anh là hãy sống tốt.

Bữa cơm ăn mừng cho sự xuất hiện của nàng dâu mới, Bà cụ kể toàn những chuyện vui, Bà hy vọng rằng tương lai của hai đứa con mình sẽ tươi sáng, với “nồi chè khoán” do chính tay Bà nấu, tuy chát đắng nhưng thể hiện được sự quan tâm của Bà tới hạnh phúc của con. Đang trong cuộc vui của gia đình mừng nàng dâu mới thì có tiếng trống thúc thuế dồn dập, trong đầu Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Nam bay phất phơ và cùng nhiều người đi cướp kho thóc của giặc để chia cho dân nghèo. Đó là tinh thần đoàn kết của người dân cùng khổ trong chiến tranh và họ vẫn luôn hy vọng rằng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn đang chờ đón họ phía trước

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 6

Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói, vào một buổi chiều tà, Tràng – một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi, ở xóm ngụ cư – dẫn về nhà một người phụ nữ – người vợ nhặt. Tràng gặp người vợ nhặt đang trong hoàn cảnh đói rách cùng đường. Với một câu nói đùa và mời ăn bốn bát bánh đúc, Tràng được người phụ nữ này ưng thuận theo anh về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng buồn vui, lo âu, hi vọng khó tách bạch nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau, Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người. Trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ, Tràng hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới.

Xem thêm  Chuyện người con gái Nam Xương (Tác giả Tác phẩm - sách mới)

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 7

Tràng sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Ít lâu nay, anh xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi khi qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi ở đây. Một lần, trên đường kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, anh gặp gỡ với thị. Chỉ với bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm vợ, rồi theo anh về nhà. Về đến nhà, bà cụ Tứ – mẹ của Tràng vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một người đàn bà lạ ở trong nhà. Sau khi biết rõ sự tình, người mẹ nghèo khổ ấy đã hiểu ra, và chấp nhận nàng dâu mới. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy và thấy mọi thứ xung quanh thay đổi. Bản thân anh cũng cảm thấy cần có bổn phận phải lo cho vợ con. Bữa ăn đầu tiên của nàng dâu mới mới thật thảm hại: chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Họ vừa ăn vừa nói đến chuyện tương lai. Bà cụ Tứ còn mang lên món chè khoán mà thực chất là cháo cám mà theo lời bà là khối nhà chẳng có mà ăn. Tiếng trống thúc thuế vang lên khiến Tràng nhớ đến đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 8

Tràng là anh thanh niên ngụ cư nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò kiếm sống. Anh vốn ế vợ từ lâu nhưng đột nhiên lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng chỉ bằng vài câu hò đùa và bốn bát bánh đúc. Trên đường về, Tràng vừa ngượng ngùng vừa hãnh diện vì lấy được vợ. Người dân xóm ngụ cư ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà lạ theo Tràng, rồi lại lo lắng cho anh vì đã đèo bòng thêm một miệng ăn giữa nạn đói khủng khiếp. Trước việc con trai lấy vợ, bà cụ Tứ ban đầu rất ngạc nhiên, khi hiểu ra câu chuyện, bà vừa xót xa vừa mừng tủi và chấp nhận cô vợ nhặt là dâu con trong nhà. Sáng hôm sau, Tràng hạnh phúc như vừa ở giấc mơ đi ra. Anh nhận thấy sự đổi thay quang quẻ của ngôi nhà dưới bàn tay của mẹ và vợ. Tràng cảm động, cảm thấy gắn bó với ngôi nhà và thấy mình nên người. Trong bữa sáng đón nàng dâu mới, cả nhà Tràng ăn uống rất đầm ấm, cô vợ ra dáng là người phụ nữ hiền thảo chứ không chao chát, chỏng lỏn như hai lần đầu gặp gỡ. Bà cụ Tứ không chỉ nói toàn chuyện vui, chuyện làm ăn mà còn vui vẻ bưng lên nồi “chè khoán”. Nhưng cả ba người đều im lặng hờn tủi ngay khi gợt miếng đầu tiên vào miệng bởi “chè khoán” thực ra là nồi cám chát xít. Giữa lúc ấy, người con dâu nghe thấy tiếng trống thúc thuế bèn kể chuyện người đói ở Thái Nguyên, Bắc Giang vùng dậy phá kho thóc Nhật. Câu chuyện ấy làm hiện lên trong đầu Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 9

Truyện xoay quanh tình huống nhặt được vợ của anh cu Tràng đầy hài hước nhưng cũng cay đắng và nghẹn ngào. Chỉ với dăm bát bánh đúc và mấy câu hò bông đùa mà một thanh niên nghèo khó đã được một người phụ nữ xa lạ theo không về nhà. Cuộc sống của anh Tràng cũng như Thị cùng nhau bước sang một trang mới, tuy còn gặp nhiều khó khăn, đến miếng ăn cái mặc hay sự chuẩn bị cho một đám cưới đều không được vẹn toàn, nhưng ta vẫn thấy sáng lên trong tác phẩm một tình người ấm áp.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 10

Năm 1945 ở nước ta, nạn đòi hoành hành nghiêm trọng khiến người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Trong xã hội ấy có một chàng trai tên là Tràng. Anh sống ở xóm ngụ cư, xấu xí, thô kệch và ế vợ. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, Tràng đã quen với một cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Tràng đã không còn nhận ra cô gái ấy, bởi cô tiều tuỵ và hốc hác đi nhiều lắm. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau mấy câu nói nửa đùa, nửa thật mà cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng) cũng bàng hoàng, ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm “đón nàng dâu mới”, họ chỉ ăn với nhau một bữa cháo và cháo cám. Nhưng trong bữa cơm ấy, bà cụ Tứ đã dành cho nàng dâu mới một tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 11

Giữa lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi chiều tà, không khí ảm đạm vì nghèo đói, Tràng – một người nông dân nghèo, luống tuổi, xấu xí, thô kệch, lại dở hơi – dẫn một người phụ nữ về nhà làm vợ. Vì đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường nên chỉ qua vài lần gặp gỡ với một vài câu nói đùa, rồi cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc do Tràng “chiêu đãi” mà người phụ nữ này ưng thuận theo không anh về nhà. Người ta vẫn thấy thị là người con gái trơ trẽn khi ăn một chặp 4 bát bánh đúc, vậy mà trên đường theo Tràng về nhà, thị lại trở nên bẽn lẽn lạ thường. Về đến nhà Tràng, nhìn thấy gia cảnh nghèo túng, thị đã không giấu được nỗi thất vọng trong ánh mắt. Khi mẹ Tràng (bà cụ Tứ) trở về, nhìn thấy người đàn bạ lạ trong nhà, được con trai giới thiệu rằng đó là con dâu mình. Phản ứng đầu tiên của bà không phải vui mừng, mà là ngạc nhiên và lo lắng. Thế rồi, bà cũng đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Bà cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 12

Mẹ của Tràng cảm thấy bối rối khi con mang về một cô gái và nói là vợ. Bà chấp nhận, nhưng trong lòng lo lắng và bối rồi. Buổi sáng hôm sau, nhà Tràng trông thật kỳ quặc. Gọn gàng và sạch sẽ hơn rất nhiều. Cả gia đình ngồi ăn sáng với nồi cháo lõng bõng, nhưng không khí trong nhà rất vui vẻ. Khi nồi cháo hết nước, dù mẹ Thị nhanh chóng mang nồi chè khoáng ra, nhưng đó chỉ là chè từ cám.

Từ đó, không ai nói chuyện với ai, vì mọi người đều hiểu rằng đầu lưỡi chát là sự thật và nó đã đưa họ đến với thực tế. Họ không có thực phẩm. Tiếng trống thuế vang lên, Thị thắc mắc tại sao làng này vẫn phải đóng thuế, trong khi làng của Thị đã phá kho thóc của Nhật để chia cho dân.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 13

“Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, được in vào năm 1962. Tác phẩm có tiền thân là “Xóm ngụ cư” nhưng ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tác phẩm bị mất bản thảo, đến khi hòa bình lập lại năm 1954, Kim Lân dựa trên cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.

Vào năm 1945, cái đói đã bắt đầu tràn xuống xóm ngụ cư, trẻ con ủ rũ, người lớn dật dờ, lặng lẽ y như những bóng ma. Giữa lúc ấy nghèo đói, ảm đạm ấy, Tràng lại dắt một người đàn bà xa lạ về nhà. Trên đường về, đám trẻ con trong xóm gào lên “chông vợ hài” để trêu chọc họ. Người lớn ngạc nhiên bàn tán, những khuôn mặt u tối của họ bỗng rạng rỡ lên. Về đến gian nhà vắng teo, rúm ró, xiêu vẹo, Tràng trong tâm trạng nóng ruột chờ bà cụ Tứ, còn người đàn bà xa lạ kia ngồi mớn ở mép giường cũng trong tâm trạng buồn, lo lắng. Thị buồn có lẽ bởi chị tưởng như mình đã tìm được chốn nương tựa, nhưng hoá ra hoàn cảnh của Tràng cũng không hề khá khẩm như thị đã mong đợi. Trời chạng vạng tối, cụ Tứ về đến nhà thì rất ngạc nhiên khi có người đàn bà lạ trong nhà, rồi lại chào mình bằng u. Được Tràng giải thích, bà nín lặng, bao nỗi niềm xáo trộn trong lòng, xót xa, ai oán, buồn tủi xen lẫn cả niềm vui. Bà nín lặng vì hiểu rằng thị theo con bà về làm vợ không phải vì tình yêu, mà là do thị đã quá đói khổ. Bà xót xa bởi tủi cho phận mình, thương cho con trai. Con người ta dựng vợ gả chồng phải làm đám cưới, vậy mà bà còn chẳng lo nổi cho con mình một đám cưới đàng hoàng. Nhưng rồi bà cũng vui mừng bởi trong cái hoàn cảnh khốn cùng ấy, chuyện Tràng lấy được vợ chỉ có trong cổ tích, thế mà nay đã xảy ra. Nghĩ đến đấy, bà mở rộng trái tim đón lấy thị, nhận là con dâu. Đêm hạnh phúc của vợ chồng Tràng diễn ra trong cảnh chết chóc, tan tác và thê lương. Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn và nhận ra quang cảnh nhà cửa có sự thay đổi thay, đống quần áo rách được đưa ra phơi, đống rác ở đầu ngõ đã được hót sạch, ang nước khô đã được kín đầy. Cảnh vật ấy làm cho Tràng thấm thía, có cảm giác phấn chấn và có trách nhiệm bổn phận với gia đình. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới là một lùm rau chuối thái rối, muối trắng, bát cháo lõng bõng và một nồi chè khoán. Nồi chè khoán nghe thì tưởng chừng ngon lắm, nhưng thực chất cũng chỉ là nồi cháo cám. Trong bữa cơm, cụ Tứ nói toàn chuyện vui, cụ động viên con trai, con dâu cố gắng làm ăn, và khi nghe tiếng thúc thuế nổi lên, bà cụ lại khóc, còn trong Tràng bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn người trên đê đi phá kho thóc của Nhật.

Xem thêm  20+ Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương (ngắn nhất)

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 14

Năm 1945, nạn đói hoành hành khủng khiếp, gười chết như ngả dạ, người sống dật dờ như những bóng ma. Anh cu Tràng – nhân vật chính của truyện hiện lên với hình ảnh “xấu xí, thô kệch”, lại là dân trong xóm ngụ cư, nghèo đói đến mức chẳng nuôi nổi thân mình với mẹ già. Thế mà Tràng lại nhặt được vợ, bởi Tràng gặp thị – một người đàn bà đỏng đánh, kém duyên. Nhờ lòng thương người, Tràng đãi thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc. Chỉ có thế thôi mà thị theo Tràng về nhà làm vợ, gặp bà cụ Tứ – mẹ của Tràng. Bà cụ Tứ tuy rất ngạc nhiên khi Tràng dắt vợ về nhưng bà cũng thấu hiểu và thấy thương cho người con gái ấy. Bà hiểu rằng người con gái ấy phải nghèo đói đến cùng cực rồi thì mới theo con bà về làm vợ. Bà thương xót con trai bà chẳng có nổi một cái đám cưới. Nhưng bà cũng vui mừng vì cuối cùng Tràng cũng yên bề gia thất. Khi về làm vợ Tràng, thị đã thay đổi, trở thành một người biết chăm lo cho gia đình chứ không còn đỏng đảnh như trước kia. Anh cu Tràng cũng thay đổi, anh thấy lo cho tương lai sau này và có những suy nghĩ sâu xa hơn về cuộc sống. Ba mẹ con Tràng, Thị và bà cụ Tứ cùng nhau ăn nồi cháo cám rất vui vẻ, còn gọi đùa rằng đó là chè khoán. Trong lúc trò chuyện, thị có nhắc tới chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật, lúc này trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 15

Tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân, xuất hiện trong tập Con Chó Xấu Xí, là một truyện ngắn nổi bật. Ban đầu, tác phẩm có tựa đề Xóm Ngụ Cư và được viết ngay sau Cách Mạng Tháng Tám. Bản thảo sau đó đã được chỉnh sửa.

Trong không khí nơi chợ, trẻ con buồn bã, người lớn mệt mỏi. Tràng đưa người phụ nữ xa lạ về nhà. Tiếng gào của trẻ con và sự chú ý của người lớn tạo nên không khí sôi động. Khi về nhà trống trải, Tràng lẩn tránh và bước vào. Người phụ nữ không ngờ bị cuốn theo Tràng. Hai lần gặp nhau, với bốn bát bánh đúc, người phụ nữ thể hiện sự ‘chặc lưỡi’ của mình, khiến Tràng ngạc nhiên. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, về nhà muộn, gặp cảnh này, bà càng bất ngờ. Tràng giải thích, bà cụ Tứ không biết nên vui hay buồn. Trò chuyện với con dâu, bà khóc, và Tràng thắp đèn. Mùi rơm và tiếng hờ khóc từ những ngôi nhà lân cận vẫn còn vang vọng.

Buổi sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy. Tất cả đã thay đổi, nhà sạch sẽ và gọn gàng. Tràng cảm thấy trách nhiệm với vợ và yêu thương ngôi nhà hơn. Bữa ăn đơn giản chỉ là rau chuối chấm muối, cùng với mỗi người hai lưng bát cháo lõng bõng. Bà cụ Tứ, vui mừng, nấu nồi cháo cám và gọi là ‘chè khoán’. Tiếng trống thúc đẩy từ ngoài đình vang lên. Bà cụ Tứ lại khóc, và trong tâm trí Tràng hiện lên lá cờ đỏ cùng đoàn người trên đê Sộp, đi phá kho thóc.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 16

Năm 1945, đại đói cướp đi sinh linh, nỗi đau tràn ngập khắp nơi, người chết nằm như bóng ma, người sống dật dờ nhưng không bừng tỉnh. Tràng, chàng trai xấu xí, sống ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê, cùng mẹ già. Một lần kéo xe thóc, Tràng gặp cô gái đói rách, về sau cô trở thành vợ Tràng. Sự xuất hiện của vợ mới khiến cả xóm người ngạc nhiên, đặc biệt là bà Cụ Tứ – mẹ Tràng, ban đầu bàng hoàng và lo lắng nhưng sau cũng chấp nhận. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới, họ chia sẻ bữa cháo và nồi cháo cám cho nàng dâu, thể hiện lòng độ lượng và bao dung. Câu chuyện kết thúc khi tiếng trống thuế vang lên, Thị nói về Việt Minh phá kho thóc Nhật, và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng lại hiện về trong ký ức của Tràng.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 17

Kể về Tràng, một chàng trai trong thời đại loạn lạc, nạn đói 1945 làm hàng triệu người chết. Trong hoàn cảnh khốn khó, Tràng, mặc dù xấu trai, thô kệch, nhưng lại cưới được vợ. Tin này khiến xóm người ngạc nhiên, đặc biệt là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng. Bữa cơm mừng, bà cụ chia sẻ niềm vui và hy vọng vào tương lai hạnh phúc của con dâu mới bằng một nồi chè do chính tay nấu. Nhưng tiếng trống thúc thuế làm hiện về hình ảnh lá cờ Việt Nam, người dân cùng nhau cướp kho thóc giặc, khát vọng một tương lai tươi sáng.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 18

Tràng, người đàn ông nghèo cùng xóm ngụ cư, một ngày buổi chiều, không khí thê thảm, đen tối vì đói. Anh dẫn về một người phụ nữ, vợ anh, người anh đánh giá cao. Tràng nhìn thấy vợ tương lai đói rách, mời ăn bốn bát bánh đúc, lời đùa vui.

Bà mẹ già của Tràng đón nhận người phụ nữ khốn khổ đó làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm. Tràng thấy con người mình thay đổi. Từ chút đùa đến thoáng lo, Tràng trở thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán. Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng Tràng và vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong tâm trí anh hiện lên đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phất phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 19

Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, nằm trong tập Con chó xấu xí, kể về số phận của Tràng, một chàng trai trong thời kỳ nạn đói 1945. Mặc dù xấu trai, thô kệch, nhưng Tràng lại có vợ nhờ vào sự nhân văn của mình. Khi tin Tràng cưới vợ lan truyền, xóm ngụ cư đều ngạc nhiên, đặc biệt là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, vừa vui vẻ vừa lo lắng. Bữa ăn mừng với nồi chè khoán của bà cụ Tứ chứa đựng hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Trong cuộc sống đầy khó khăn, đám người cướp kho thóc để chia cho dân nghèo làm Tràng nhớ đến lá cờ Việt Nam đỏ bay phất phới, nơi tinh thần đoàn kết bùng cháy trong con người Việt.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 20

Trong cơn nạn đói khủng khiếp năm 1945, những bóng ma chết chóc bao phủ khắp nơi. Anh chàng Tràng, hình ảnh ‘xấu xí thô kệch’, độc thân và sống giữa xóm ngụ cư. Tràng gặp thị, một người phụ nữ đỏng đảnh, kém duyên. Tràng, với lòng thương người, đã mời thị ăn bánh đúc. Thị trở thành vợ Tràng, gặp bà cụ Tứ – mẹ của Tràng.

Bà cụ Tứ ngạc nhiên nhưng thấu hiểu và thương người con gái ấy. Thị, trở thành người chăm sóc gia đình, không còn đỏng đảnh. Tràng cũng thay đổi, lo lắng về tương lai. Ba mẹ con Tràng, Thị và bà cụ Tứ hạnh phúc ăn nồi cháo cám, đùa rằng đó là chè khoán. Trong cuộc trò chuyện, Thị nhắc đến Việt Minh phá kho thóc Nhật, trong tâm Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 21

Những năm 1945, nạn đói đen tối hoành hành, nhân dân sống vật vờ và chết đói. Trong tình cảnh khốn khó, Tràng, một chàng trai xấu xí, lại có vợ. Họ gặp nhau giữa cảnh đau khổ chung.

Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu với lòng vừa mừng, vừa lo. Không rẻ rúng, người phụ nữ đã theo con trở về. Bà cầu chúc hạnh phúc cho đôi trẻ mới cưới.

Ngày tiếp theo, bà cụ Tứ và cô dâu cùng nhau dọn dẹp nhà cửa. Tràng nhận ra trách nhiệm của mình đối với gia đình và vợ mới. Bữa ăn đơn sơ nhưng ấm cúng được bà cụ Tứ chuẩn bị làm cho không khí trở nên vui tươi. Tiếng trống vang lên, trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người dân đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật để chia sẻ với nhau, và lá cờ đỏ bay phất phới trong gió.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 22

Câu chuyện trong tác phẩm Vợ nhặt diễn ra vào năm 1945, thời kỳ nạn đói đen tối, khi hàng triệu người chết đói. Trong bối cảnh khốn khó, chàng trai xấu xí, Tràng, lại có được vợ – người vợ nhặt. Tin đồn này khiến cả xóm ngạc nhiên và lo lắng, đặc biệt là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng. Bà vừa mừng vừa lo, nỗi lo cơ bản về miệng ăn trong hoàn cảnh khan hiếm thức ăn.

Ngày tiếp theo, nhờ vợ mới, nhà cửa trở nên gọn gàng. Bữa cơm gia đình trở nên ấm cúng hơn với sự hiện diện của nàng dâu mới. Bà cụ Tứ trò chuyện vui vẻ, truyền đạt hy vọng vào tương lai hạnh phúc của đôi vợ chồng. Nồi chè khoán, do bà Tứ tự tay nấu, tuy chua nhưng ấm áp, thể hiện tình thương mẹ dành cho con. Trong bữa ăn hạnh phúc, tiếng trống thúc thuế vang lên, và trong tâm trí Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ bay phất phới, cùng với những người đồng bào đi phá kho thóc để chia sẻ với nhau.

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 23

Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rách rưới ở xóm Ngụ cư. Hằng ngày, Tràng đi kéo xe bò thuê. Một hôm, khi kéo xe thóc Liên Đoàn lên tỉnh, Tràng đã gặp thị. Nhờ một câu hò vu vơ lúc mệt nhọc, thị đã chạy tới kéo xe giúp Tràng. Đến lần gặp mặt thứ hai, thị trông xanh xao và tiều tụy đi nhiều vì cái đói. Tràng đã mời thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc dù Tràng cũng không có đủ tiền ăn. Thị theo Tràng về nhà và gặp mẹ Tràng. Thị cùng mẹ dọn dẹp sân vườn, bữa cơm đón nàng dâu của bà cụ Tứ và anh cu Tràng là một nồi cháo cám mà cả ba gọi khéo là chè khoán. Cuối truyện là hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên trong óc Tràng, như là mở ra một cánh cửa mới cho tương lai sau này của các nhân vật.

Xem thêm  Lặng lẽ Sa Pa (Tác giả Tác phẩm - sách mới)

Tóm tắt Vợ nhặt – Mẫu 24

Tràng – một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè khoán. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong óc Tràng hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.

Vợ nhặt - Ngữ văn lớp 12

A. Nội dung tác phẩm

    Câu chuyện kể về nhân vật anh cu Tràng là một chàng trai nghèo, vì nghèo nên anh không lấy được vợ, anh Tràng làm công việc kéo xe thóc thuê lên tỉnh, vào một ngày đi làm về người ta bỗng thấy anh đi về cùng với một người đàn bà mọi người đồn đoán rằng đó là vợ anh cu Tràng, và đúng đó là vợ của anh cu Tràng thật. Người vợ này là người anh Tràng quen khi đang kéo xe thóc lên tỉnh, chỉ bằng vài câu bông đùa người đàn bà đã theo không anh về làm vợ. Bà cụ Tứ khi thấy con mình có vợ thì vừa lo lắng nhưng phần nào cũng vui mừng, chúc phúc cho cặp vợ chồng. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy Tràng thấy mọi sự thay đổi trong căn nhà của mình, sạch sẽ tươm tất gọn gàng và tất cả mọi người trong nhà ai nấy đều vui vẻ rạng rỡ hẳn lên. Bữa ăn đầu tiên đón con dâu mới của gia đình chỉ vỏn vẹn có món rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo những cả nhà đều ăn rất ngon lành và nói đến những chuyện vui về tương lai. Thị kể về chuyện những người đi phá kho thóc Nhật cho Tràng và bà cụ Tứ nghe, tưởng chừng như đó chỉ là những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhưng nó lại chính là chìa khóa mở ra trong đầu anh Tràng lá cờ của Đảng và một cuộc sống mới trong tương lai hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp hơn.

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

– Kim Lân (1920 – 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.

– Quê quán: làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

– Phong cách nghệ thuật: Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông thường viết về nông thôn và những người nông dân của làng quê Việt Nam. 

– Sự nghiệp văn học: 

+ Năm 1944, Kim Lân tham gia hội văn hóa cứu quốc, sau đó tiếp tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).

+ Năm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

– Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn 1962).

2. Tác phẩm

a, Hoàn cảnh sáng tác

    Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Ban đầu có tên là Xóm ngụ cư nhưng do bị thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại (1954), tác giả đã dựa vào cốt truyện cũ để viết lại truyện ngắn này.

    Truyện tái hiện lại bức tranh nạn đói năm 1945 ảm đạm, thê lương và đói nghèo.

b, Bố cục

– Đoạn 1: Từ đầu đến “tự đắc với mình” 

Đoạn văn kể lại việc anh Tràng dẫn người “vợ nhặt” về xóm ngụ cư

– Đoạn 2: Từ “Thị lẳng lặng theo hắn vào nhà” đến “rồi cùng đẩy xe bò về”

Đoạn văn kể lại câu chuyện hai người gặp nhau và cái duyên đưa họ trở thành vợ chồng.

– Đoạn 3: Từ “Tràng chợt đứng dừng lại” đến “nước mắt chảy dòng dòng” 

Tràng giới thiệu người vợ nhặt với mẹ mình. Tâm trạng lo lắng nhưng vui mừng, phấn khởi của bà cụ Tứ trước hạnh phúc cả đời của các con.

– Đoạn 4: Đoạn còn lại: 

Những thay đổi tích cực của gia đình anh cu Tràng vào buổi sáng hôm sau. Niềm tin, hy vọng về sự đổi khác trong tương lai.

c, Phương thức biểu đạt: Tự sự.

d, Ý nghĩa nhan đề:

– Nhan đề nói đến một việc vô cùng vô lý. Thường từ “nhặt” chỉ để dùng với những thứ đã bị vứt đi, bị rơi, bỏ. Tuy nhiên tác giả ở đây lại kết hợp với từ “vợ”. Qua đó ta thấy được số phận, giá trị của những con người trong bối cảnh xã hội đó họ bị rẻ rúng, coi thường như những đồ dùng bị vứt đi, có thể nhặt về thật dễ dàng.

– Nhan đề thâu tóm được toàn bộ nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Phơi bày hiện thực cuộc sống xã hội Việt Nam trong những năm mà nạn đói 1945 hoành hành. Con người lúc này để duy trì cuộc sống có thể dẫm đạp lên chính lòng tự trọng của bản thân mình. 

e, Giá trị nội dung

– Phản ánh hiện thực cuộc sống nghèo túng, bi đát đến độ con người phải bán rẻ đi cả nhân cách và phẩm giá của bản thân mình.

– Ca ngợi niềm tin yêu, khát vọng hạnh phúc gia đình của anh cu Tràng dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất nhưng vẫn luôn tin tưởng vào ngày mai tươi đẹp hơn.

– Tác giả đã gián tiếp lên án tố cáo thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra thảm họa nạn đói năm 1945, để biết bao người dân phải chịu cảnh khốn cùng.

f, Giá trị nghệ thuật.

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.

– Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.

– Nghệ thuật đối thoại độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lý, tính cách của từng nhân vật.

– Ngôn ngữ kể chuyện phong phú, cách kể chuyện gần gũi tự nhiên.

– Kết cấu truyện đặc sắc.

C. Đọc hiểu văn bản

I. Tìm hiểu nhân vật anh cu Tràng.

1. Lai lịch

– Ngoại hình: xấu xí, thô kệch.

– Tính cách: 

+ Hóm hỉnh, chân thật, vô tư,…

+ Là người chăm chỉ, chịu khó làm ăn,…

– Hoàn cảnh: 

+ Là người dân nghèo sống trong xóm ngụ cư.

+Sống cùng với người mẹ già, làm nghề kéo xe bò thuê.

+ Vì nghèo khó nên anh ta vẫn chưa lấy được vợ.           

2. Vẻ đẹp tâm hồn.

– Giàu lòng thương người:

+ Lần đầu gặp thị, anh Tràng chỉ có ý định đùa chút cho đỡ mệt.

+ Lần thứ hai gặp thị, anh không né tránh rất vui vẻ, mời thị ăn giầu ăn bánh đúc.

+ Quyết định dẫn thị về nhà mặc dù hoàn cảnh gia đình Tràng cũng rất khó khăn.

– Khao khát hạnh phúc:

+ Trên đường trở về nhà cùng Thị Tràng vui vẻ hạnh phúc đôi mắt lấp lánh. 

+ Về nhà: Xăm xăm bước vào nhà thu dọn: lén nhìn thị cười, khi mẹ đồng ý thì thở phào nhẹ nhõm.

+ Hôm sau cảm thấy êm ái, lơ lửng có cái gì đó mới mẻ, lạ lẫm.

– Trách nhiệm:

+ Nghĩ đến việc sinh con đẻ cái, nhận thức được trách nhiệm với vợ con.

+ Muốn tu sửa lại căn nhà.

+ Tỏ ra ngoan ngoãn khi nghe mẹ bàn chuyện.

– Niềm tin:

+ Ân hận, tiếc rẻ khi không theo mọi người phá kho thóc Nhật.

+ Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới.

II. Tìm hiểu nhân vật người vợ.

1. Lai lịch

Ngoại hình: xấu xí, gầy gò, rách rưới.

– Hoàn cảnh:

+ Không tên tuổi, không quê quán, không họ hàng, nghề nghiệp, lê la phố chợ.

+ Cùng đường liều lĩnh.

+ Chỉ vì miếng ăn mà không ngần ngại bán rẻ danh dự, theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ.

2. Vẻ đẹp tâm hồn:

– Trên đường về nhà chồng:

+ Ý tứ đi sau Tràng

+ Rón rén, e thẹn trước sự săm soi của mọi người.

+ Ngượng nghịu chân nọ ríu chân kia.

+ Cái nón che khuất nửa khuôn mặt.

– Về đến nhà chồng:

+ Nén tiếng thở dài khi thấy cảnh nhà Tràng. 

+ Ngồi mem mép giường đầy dè dặt, nữ tính.

+ Chào hỏi mẹ chồng lễ phép đúng mực.

– Sáng hôm sau:

+ Dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa.

+ Thông cảm với hoàn cảnh nghèo khó của nhà chồng 

III. Tìm hiểu nhân vật bà cụ Tứ.

1. Lai lịch:

Ngoại hình: Dáng đi lọng khọng vừa đi vừa húng hắng ho.

– Hoàn cảnh: 

+ Nhà nghèo, chồng chết, ở với con trai.

+ Là dân ngụ cư, tuổi đã cao nhưng vẫn phải bươn chải kiếm sống.

2. Vẻ đẹp tâm hồn.

– Yêu thương con:

+ Trước việc con trai lấy vợ theo cách khốn khổ nhất và bất ngờ lo lắng băn khoăn.

+ Xót thương cho con vì mình không thể lo nổi hạnh phúc cho con trai.

– Thương người:

+ Cảm thương cho số phận người con dâu

+ Chấp nhận người con dâu, chào đón trong gia đình của mình.

– Gieo niềm tin cho các con:

+ Động viên các con trước những ngày khó khăn.

+ Bắt đầu ngày mới với khuôn mặt rạng rỡ, làm việc chăm chút cho gia đình nhỏ cùng các con.

+ Nói toàn những chuyện tốt đẹp trong tương lai.

IV. Nghệ thuật.

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.

– Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.

– Nghệ thuật đối thoại độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lý, tính cách của từng nhân vật.

– Ngôn ngữ kể chuyện phong phú, cách kể chuyện gần gũi tự nhiên.

– Kết cấu truyện đặc sắc.

D. Sơ đồ tư duy

 Vợ nhặt 

Vợ nhặt

Bài giảng: Vợ nhặt – Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên VietJack)

Để học tốt bài học Vợ nhặt lớp 12 hay khác:

Xem thêm các bài soạn văn lớp 12 hay khác:


vo-nhat.jsp


Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Meraki Center với mục đích chia sẻ và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 0000 hoặc email: hotro@merakicenter.edu.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *