Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu) – Tổng hợp Sơ đồ tư duy môn Ngữ văn lớp 12 của tất cả các tác phẩm đầy đủ về tác giả, dàn ý phân tích, văn mẫu, giá trị nội dung, nghệ thuật giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức môn Văn lớp 12.-Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ dễ nhớ, dễ hiểu đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của bài Vợ chồng A Phủ.

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Bài giảng: Vợ chồng A Phủ – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ – mẫu 1

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ – mẫu 2

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ – mẫu 3

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ – mẫu 4

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy nhân vật A Phủ – mẫu 1

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy nhân vật A Phủ – mẫu 2

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy nhân vật Mị – mẫu 1

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy nhân vật Mị – mẫu 2

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy nhân vật Mị – mẫu 3

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Mị trong đêm tình mùa xuân

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Sức sống tiềm tàng của Mị – mẫu 1

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Sức sống tiềm tàng của Mị – mẫu 2

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A Phủ

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Tiếng sáo mùa xuân

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Sơ đồ tư duy Ngọn lửa mùa đông

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ (dễ nhớ, dễ hiểu)

Tác giả tác phẩm Vợ chồng A Phủ

I. TÁC GIẢ:

– Tô Hoài (1920 – 2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen.

– Quê quán: quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại – làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghãi Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công.

– Thời trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề như làm gia sư, dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,… và nhiều khi thất nghiệp.

– Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một số cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay.

– Các tác phẩm chính: “Dế mèn phiêu liêu kí” (truyện, 1941), “Cát bụi chân ai” (hồi kí, 1992), “Chiều chiều” (tự truyện, 1999),…

– Phong cách sáng tác:

   + Thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền.

   + Lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của người từng trải.

+ Vốn từ vựng phong phú đưuọc sử dụng đắc địa, tài ba, có sức lay động, lôi cuốn người đọc.

II. TÁC PHẨM:

1.     Hoàn cảnh ra đời:

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”, được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.

2.     Thể loại: Truyện ngắn.

3.     Chủ đề:

Qua câu chuyện về cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện một cách xúc động nỗi khổ cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất thực dân, đồng thời phát hiện, khẳng định vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt và quá trình vùng lên tự giả phóng, xây dựng lại cuộc đời của họ.

4.     Bố cục:

– Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra.

– Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá Tra.

– Phần 3 (còn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

5.     Tóm tắt:

Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng. A Phủ là một chàng trai nghèo, mô côi, khỏe mạnh, gan góc, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, phải vay vốn thống lí để nộp phạt, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ trong nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.

6.     Giá trị nội dung:

– “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vừng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.

– Truyện cũng nói lên ước mơ về một cuộc sống tự do, hạnh phúc của người dân.

7.     Giá trị nghệ thuật:

– Ngôn ngữ giản dị, sinh động, hấp dẫn.

– Xây dựng nhân vật đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, tài tình.

– Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.

III. DÀN Ý PHÂN TÍCH:

1. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Tô Hoài (tiểu sử, các tác phẩm chính, phong cách nghệ thuật…)

– Giới thiệu về truyện “Vợ chồng A Phủ” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật)

2. Thân bài:

* Nhân vật Mị:

a) Cách giới thiệu nhân vật:

– Mị lúc nào cũng cúi mặt, buồn rười rượi.

– Nhà thống lí Pa Tra giàu lắm, con gái làm gì biết khổ, biết buồn.

=> Tác giả tạo ra tình huống đối lập, một nghịch cảnh. Từ đó, hé mở số phận, cuộc đời nhiều bi kịch, đầy ngang trái của Mị.

b) Mị trước khi trở thành con dâu gạt nợ:

– Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, đẹp và có tài thổi sáo: trai đến đứng nhẵn cả chân đầu buồng Mị, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo…

Chăm chỉ, hiếu thảo: biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương làm ngô giả nợ thay cho bố…

=> Mị hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp và phẩm chất đáng quý của người dân miền núi.

c) Mị từ khi trở thành con dâu gạt nợ:

Nguyên nhân trở thành con dâu gạt nợ: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về cúng trình ma. Người lao động bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.

Mị bị đày đọa về mặt thể xác, trở thành công cụ lao động, lao động theo bản năng và quên hết ý niệm về thời gian: phải làm việc suốt ngày đêm, không bằng con trâu con ngựa, bị đánh đập dã man, lùi lũi như con rùa trong xó cửa,…

Mị bị tra tấn về tinh thần: ở trong căn buồng kín bưng, chỉ có chiêc cửa số một lỗ vuông “bằng bàn tay”…

Sức sống trỗi dậy trong Mị vào đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài:

   + Những yếu tố ngoại cảnh có tác động đến Mị, khơi dậy sức sống trong tâm hồn Mị: cảnh Hồng Ngài đón Tết, tiếng sáo gọi bạn đi chơi,…

   + Tâm trạng của Mị khi xuân về: nghe lời bài hát và nhẩm hát theo; lén uống rượu, nhớ lại quá khứ; muốn được đi chơi.

   + Khi bị A Sử trói đứng: như không biết mình bị trói; vẫn nghe tiếng sáo; vùng bước đi

=> Sức sống trỗi dậy trong Mị, hối thúc, thúc dục Mị hành động.

Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài:

   + Lúc đầu, Mị thản nhiên ngồi sưởi lửa.

   + Nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị đồng cảm với A Phủ, thương A Phủ và thương cho chính mình, Mị thấy nhà thấy nhà thống lí Pá Tra thật độc ác, nảy sinh ý định cởi trói cho A Phủ nhưng lại thấy sợ.

Xem thêm  Top 100 Mở bài Vợ chồng A phủ (hay nhất)

   + Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ.

   + Mị giục A Phủ chạy trốn và quyết định chạy trốn theo A Phủ.

=> Hành động mang tính bột phát nhưng lại là điều tất yếu, là hệ quả tất yếu của cô Mị với sức sống trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân, yêu đời, khát khao sống.

Phân tích Vợ chồng A Phủ

Tô Hoài là một tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: “Dế Mèn phiêu lưu ký”, “Giăng Thề”, “Quê nghèo”,…Tập “Truyện Tây Bắc” cũng là một trong những thành tựu vô cùng xuất sắc, một lần nữa khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với giá trị nhân văn sâu sắc.

Truyện kể về cuộc sống của nhân vật Mị, một cô gái vùng núi Tây Bắc. Mị vốn là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là người con hiếu thảo, biết chăm lo giúp đỡ gia đình. Nhưng số phận trớ trêu khi Mị buộc phải chấp nhận bán mình làm con dâu nhà thống lý để trả món nợ truyền kiếp của gia đình. Có lẽ, trong xã hội lúc bấy giờ, có vô số người đang phải chịu cảnh trái ngang như Mị vậy, bởi hình thức cho vay nặng lãi của bọn người như Pá Tra mà họ phải dùng cả cuộc đời, thậm chí đánh đổi tương lai và hạnh phúc của bản thân để trả.

Ngày về làm dâu, Mị mất hết quyền tự do, bao nỗi uất ức, đau khổ đều mình nàng gánh chịu. Đau đớn thay cho phận đàn bà, phận con nợ hẩm hiu với cuộc sống lầm lũi, trước kia Mị trẻ đẹp yêu đời bao nhiêu thì giờ đây càng tồi tệ, thê thảm bấy nhiêu: “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, có lúc Mị chỉ muốn dùng nắm lá ngón mà tự tử, kết thúc cuộc đời khổ nhục, nhưng vì nghĩ đến bố, nàng đành ngậm ngùi cam chịu. Tình thân chính là thứ duy nhất khiến Mị cố gắng để chịu đựng, bởi hơi ai hết, Mị hiểu cha nàng đã khổ quá nhiều rồi. Những vất vả, công việc nặng nhọc nơi nhà thống lý đều một tay Mị làm, con dâu mà không khác con ở là bao.

Lâu dần, Mị quen với cái khổ, rồi cũng chẳng màng gì nữa, cứ thế lầm lũi qua ngày: “Mị quên với cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Bao công việc giặt đay, bẻ bắp, hái thuốc phiện,..Mị đều làm mà không một lời than vãn, mà có than vãn cũng chẳng ai quan tâm đến.

Đau khổ về thể xác, tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, có điều gì buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải người mình thương, đến sự sẻ chia, lời ủi ăn cũng chẳng có, lấy gì làm người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài: “Mỗi ngày Mị càng không nói….rùa nuôi trong xó cửa”. Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, chịu bao bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn.

Dường như, lúc này đây, Mị đang phó mặc cho số phận mình vậy. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta thấy xót thương, đồng cảm và căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn bất công của xã hội của đã đẩy con người đến đường cùng tăm tối.

Tuy sống cam chịu, lầm lũi nhưng bên trong Mị vẫn âm ỉ một sức sống mãnh liệt chỉ chực chờ để bụng toả. Khi xưa Mị là cô gái trẻ yêu đời, khao khát tự do, có niềm tin yêu cuộc sống. Sức trẻ, khát vọng hạnh phúc ấy không lụi tắt mà chỉ bị kìm xuống bởi những bất công, bạo tàn. Để rồi vào đêm tình mùa xuân, khi khắp vùng trời tây bắc đang chào đón mùa xuân tới cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, lòng Mị lại bồi hồi rạo rực với những kỉ niệm xưa: “Ngoài đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi.

Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi. Tiếng sáo đã thôi thúc Mị tiếp tục đứng lên, tiếp tục sống, thôi thúc bao nỗi khát khao trong lòng nàng. Mị tìm đến men rượu, hơi rượu đã đưa Mị về với những kí ức xưa “Mị thấy phơi phới trở lại”. Rồi Mị tìm đến nơi góc nhà, lấy ống mỡ bỏ vào đèn thắp lên thứ ánh sáng le lói, thứ ánh sáng của niềm tin nơi tăm tối, ngục tù.

Nhưng rồi, thật tàn nhẫn, tên A Sử tàn ác kia đã đứng trước mặt Mị, hắn không cho nàng đi chơi, hắn trói nàng vào cột nhà bằng những sợi đay rừng. Chính hắn đã dùng bàn tay tàn ác kia trói buộc cuộc đời nàng, giờ đây đến cả điều ước đơn giản muốn được đi chơi xuân cũng bị hắn vùi dập. Lúc này đây là nỗi đau thể xác đang hành hạ nàng nhưng lòng Mị vẫn đang mê say với tiếng sáo tha thiết kia. Có những phút Mị vùng bước đi nhưng không thể làm gì khác, thực tại quá phũ phàng đã bóp nghẹt một lần nữa khát vọng cuộc đời nàng.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị quay trở lại với cuộc sống của “con trâu con ngựa”, lầm lũi cam chịu. Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứa đứng ngoài sân, Mị cũng dửng dưng vô cảm bởi lẽ cảnh người bị trói, bị hành hạ nhà thống lí đã quá quen thuộc trong nhận thức của Mị. Tỉnh dậy trong ánh lửa bập bùng, Mị thấy dòng nước mắt đang rơi dài trên má A Phủ.

Giọt nước mắt ấy khiến Mị nhớ lại ngày trước, nàng cũng từng phải chịu nỗi hành hạ, đớn đau biết bao nhiêu rồi nàng nhớ đến chuyện người đàn bà xưa kia bị trói chết đứng trong nhà, rồi nàng lo sợ rằng có lẽ đêm nay, đêm mai nữa thì người kia cũng sẽ phải chịu chết thôi. Mị chìm vào suy nghĩ, sự đấu tranh nội tâm đưa Mị đi đến hành động quyết liệt là cắt dây trói cho A Phủ.

Dù biết đây là hành động có thể khiến bản thân bị trọng tội, song Mị đã chấp nhận hi sinh chính mình để cứu lấy con người tội nghiệp kia. Đây là một hành động thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của con người trước tội ác, bất công đồng thời thấy được tình thương yêu giữa những người nghèo khổ dành cho nhau. Cũng vào lúc ấy, Mị đã quyết định đi theo A Phủ, đó là một sự lựa chọn đúng đắn để Mị giải thoát cho cuộc đời mình.

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta mới thấy được tài năng của Tô Hoài trong việc khắc họa tâm lí nhân vật. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ đều gắn với những tính cách, những chuyển biến tâm lí đầy tinh vi của nhân vật được thể hiện rõ nét. Truyện đã vạch trần được những tội ác, sự bất công ngang trái của xã hội xưa, nói lên tiếng nói thương cảm của nhà văn với những người dân miền núi chịu nhiều khổ cực.

Ngoài ra, Tô Hoài còn đưa đến một thông điệp về giá trị sống: Trong cực khổ, bần hàn vẫn cần cố gắng, sống và quyết tâm vươn tới những chân trời tự do, tin tưởng ở tương lai tươi đẹp.

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ

Một tác phẩm có giá trị là thông qua việc phơi bày chân thực về cuộc sống, số phận của con người, tác phẩm đã lên án, tố cáo các thế lực chà đạp lên quyền sống của con người, đồng cảm với ước mơ, khát vọng chính đáng của con người, trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người và mở ra hướng giải quyết cho con người thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Những tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc thể hiện góc nhìn tinh tế và nhạy bén, cũng như tấm lòng của nhà văn hướng về con người và cuộc đời. Thông qua cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, cuộc sống của con người miền núi hiện lên thê thảm, nhưng điều đáng quý trong họ là dù có lúc bị bóc lột, chà đạp thì lòng yêu đời và khát vọng sống vẫn âm ỉ sục sôi, chỉ chờ cơ hội là bùng phát mãnh liệt.

Bức tranh hiện thực trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết là bức tranh về cuộc đời tăm tối của người nông dân miền núi khi cách mạng chưa giải phóng. A Phủ và Mị hiện lên thân phận những con người đầy tủi nhục. Họ đều là nạn nhân bi thảm của cái nghèo truyền kiếp, của những món nợ truyền kiếp.

 Với Mị, từ đời cha mẹ đã không có bạc để cưới nhau, phải đi vay nặng lãi nhà thống lý Pá Tra mới có thể cưới nhau được. Món nợ ấy theo suốt cuộc đời cha mẹ Mị và mỗi năm cũng chỉ trả được phần lãi là một nương ngô. Mẹ Mị chết, món nợ vẫn còn đó. Mặc dù không muốn, Mị vẫn bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Mị trở thành nạn nhân của món nợ truyền kiếp ấy. Cả cuộc đời Mị chỉ là sống và trả cho xong món nợ kia.

Còn với A Phủ, số phận cũng có hơn gì. Vì nghèo đói, cả gia đình A Phủ đã chết trong một nạn dịch. Cũng vì cuộc sống nghèo khổ mà A Phủ mới bị người ta bắt đem bán cho một người Thái ở bản dưới. Chốn về những bản vùng cao mới 10 tuổi, A Phủ đã phải đi làm thuê để kiếm sống. Ngoài cái vòng vía đeo trên cổ, A Phủ không có bạc, không có ruộng. Cho nên mặc dù con gái trong làng vẫn nói: “Đứa nào có được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu”, vì A Phủ rất giỏi bẫy hổ, săn bò tót lại biết đúc lưỡi cày…, nhưng A Phủ chẳng thể lấy được vợ. Rồi vì đánh A Sử mà A Phủ bị buộc phải làm người gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Ta thấy như A Phủ đã bị buộc phải điểm chỉ bằng cả bàn tay của mình và bức văn tự bán chính cuộc đời của mình, sự sống của mình, hơn thế nữa, còn bán cả cuộc sống của những kiếp con, kiếp cháu mình cho bọn nhà giàu cho bọn nhà giàu để gạt nợ.

Xem thêm  Top 50 Mở bài Việt Bắc (hay nhất)

      Đối với A Phủ cũng vậy, kiếp sống của A Phủ không đáng giá bằng kiếp sống của một con bò. Để “mất một con bò”, A Phủ lại bị thống lý Pá Tra trói đứng vào cột chờ chết. Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã làm nổi bật giá trị tố cáo của tác phẩm bởi chính cuộc đời của Mị và A Phủ trong cái kiếp sống trâu ngựa trong xã hội ấy đã làm một bản cáo trạng hết sức hùng hồn về tội ác của xã hội giai cấp lúc bấy giờ, là nhân chứng sống để phơi bày cái tàn bạo của xã hội mà giai cấp thống trị đè nén, áp bức, chà đạp lên cuộc sống của con người như thời trung cổ. Đồng thời trong mảng đời sống viết về Hồng Ngài những ngày cách mạng chưa được giải phóng còn làm hiện lên những bộ mặt quỷ dữ của bọn thống lý Pá Tra, của bọn quan lang thống quán. Bọn chúng ngỡ như có thể ăn sống nuốt tươi những con người nghèo khổ như A Phủ và Mị. Chúng ngang nhiên đánh người, bắt người một cách vô tội vạ, cuộc xử kiện của bọn quan lang đối với A Phủ thật rùng rợn… Tác phẩm đã làm nổi bật những tội ác vô cùng khủng khiếp của chúng để làm đậm lên bức tranh hiện thực, tăm tối của xã hội thực dân phong kiến ở một vùng núi cao.

Viết “Vợ chồng A Phủ“, Tô Hoài đã phản ánh sự vận động của tính cách (từ cam chịu đến vùng đứng lên) của số phận gắn liền với sự vận động của đời sống xã hội để khẳng định quy luật tất yếu: có áp bức, có đấu tranh. Cái logic tất yếu của cuộc đấu tranh ấy là đi từ tự phát đến tự giác. Nhưng Tô Hoài không phản ánh cái quy luật, cái logic tất yếu kia bằng những triết lý khi than mà bằng sự vận động của hình tượng nghệ thuật. 

 Mị và A Phủ đã bị dồn xuống con đường cùng. A Phủ nếu không được Mị cứu thì chắc đã chết trong cảnh bị trói đứng rồi. Mị cứu A Phủ bằng cả một tấm lòng nhân hậu của mình, bằng niềm cảm thông của những người cùng cảnh ngộ. Mị không nghĩ tới việc bỏ trốn bởi Mị sẵn sàng trói thay vào đó cho đến chết. Nhưng khi cứu được A Phủ, cái bản tính cứng cỏi của một cô Mị năm nào đã trỗi dậy mạnh mẽ, cái sức sống tiềm tàng ở cái giây phút bị thử thách quyết liệt nhất đã bật dậy bằng niềm khao khát tự do, thành sức mạnh để Mị vượt qua tất cả những ràng buộc của luật lệ hà khắc mà vùng lên để tự giải phóng mình. Mị chạy theo A Phủ để thoát khỏi cuộc sống tăm tối suốt bao nhiêu năm Mị đã phải chịu đựng. Bởi thế hành động của Mị đã diễn ra một cách hết sức tự nhiên. Tô Hoài đã chuẩn bị cho hành động này của Mị ngay từ khi cô nói với người cha của mình để không bán cô cho nhà giàu, để cô có thể tự tay mình trồng ngô trả nợ thay cho bố mẹ. Cái sức mạnh ấy ngỡ đã chìm đi, đã lụi tàn nhưng rồi nó được hồi sinh, được lớn lên cùng với sự nhận thức về cuộc sống đầy đau khổ của mình và trở thành hành động trong đêm cứu A Phủ như ta đã thấy.

Cuộc vùng dậy với sức mạnh quật khởi của Mị cũng là cuộc vùng dậy của những người nông dân miền núi khi bị dày xéo một cách tàn khốc. Nhưng họ không chỉ vùng dậy để chống lại cái ác, cái tàn bạo, cái dã man để giải phóng cho riêng mình. Thời đại đã mở cho họ một chân trời tự do, đó là các vùng giải phóng. Cho nên con đường mà Mị và A Phủ đến khu du kích Phiềng Sa hiển nhiên là con đường tất yếu. Nhân vật của Tô Hoài không thể rơi vào cảnh ngộ bế tắc. Mị và A Phủ đã tự tìm đến khu du kích Phiềng Sa, mới đầu cũng không phải là đi tìm cách mạng nhưng về sau, được giác ngộ bởi phong trào du kích ở Phiềng Sa, bởi “người Đảng”, Mị và A Phủ đã đến với kháng chiến, đến với cách mạng, trở thành những quần chúng tích cực. A Phủ còn trở thành đội trưởng đội du kích tham gia trực tiếp vào cuộc chiến đấu tiêu diệt đồn bản Pe, giải phóng quê hương.

Với cuộc đời và số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện một cảm quan nhân đạo hết sức mới mẻ và sâu sắc. Tô Hoài đã trân trọng, nâng niu những con người, những cuộc đời, những số phận đầy đau thương ấy.

Ở nhân vật Mị, người con gái nghèo khổ này mặc dù là nạn nhân của cái nghèo truyền kiếp nhưng Mị vẫn là một bông hoa tươi thắm nhất của núi rừng. Mị chẳng những xinh đẹp mà còn tài hoa. Mị chẳng những có tâm hồn phóng khoáng, có tình yêu mãnh liệt với cuộc sống tự do mà còn là một người có tài thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, Mị còn là cô gái có bản lĩnh, một bản lĩnh gan góc, cứng cỏi. Mị sẵn sàng chọn lấy cái chết để không phải sống nhục, sống đau khổ trong chốn địa ngục trần gian. Khi bị đè nén đến cùng cực, sức sống tiềm tàng của Mị cũng không hề bị lụi tàn. Ngược lại, sức sống ấy càng trở nên mạnh mẽ hơn để giúp Mị giải thoát số phận của mình và sau này đến với kháng chiến. Mị trở thành biểu tượng cho sức sống, cho vẻ đẹp của những người thiếu nữ vùng cao. Tô Hoài đã trân trọng, đã nâng niu trong từng bước đi sự thay đổi trong số phận của người con gái nghèo khổ này.

 Với A Phủ cũng vậy, Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật này những màu sắc tươi đẹp nhất khi vẽ chân dung cậu bé nghèo khổ đã trở thành người ở gạt nợ một cách hết sức phi lý, cũng chính là người có tấm lòng hào hiệp, là người mà con gái trong lòng ai cũng ao ước: “Đứa nào có A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu”. A Phủ được thể hiện một cách đậm nét nhất ở quá trình đến với cách mạng sau này. Nhân vật A Phủ trở thành biểu tượng cho quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh mẽ của những người nông dân miền núi nói chung. Khắc họa một nhân vật như thế, ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện một tinh thần nhân đạo mới, tinh thần nhân đạo công sản: vừa yêu thương, vừa trân trọng những con người lao động nghèo khổ, lại vừa mở ra cho họ con đường giải phóng. Từ cuộc đời và số phận của hai nhân vật này, nhà văn muốn khẳng định những giá trị lớn lao của cuộc sống mới, cuộc sống kháng chiến đối với cuộc đời của những con người từng chịu bao đau khổ trong xã hội cũ.

Qua cuộc đời, tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài đã tố cáo mạnh mẽ hiện thực xã hội miền núi trước cách mạng với chế độ thống trị khắc nghiệt, với những phong tục tập quán đã chà đạp, đè nén, vùi dập con người, cướp đi quyền hạnh phúc của con người, biến mỗi kiếp người trở thành kiếp trâu, kiếp ngựa. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc, trân thành trước cuộc đời của những con người có số phận bất hạnh. Tô Hoài còn trân trọng, nâng niu những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động miền núi ở cả Mị và A Phủ, đó là sự trân trọng sức sống tiềm tàng của cả hai nhân vật này. Đó cũng chính là những giá trị hiện thực và nhân đạo mà tác phẩm mang lại.

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ

Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, ngoài những cái tên nổi tiếng như Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,… khi viết về đề tài người nông dân và trí thức cũ ở vùng đồng bằng phía bắc với những đắng cay, đau đớn tột cùng về số phận con người dưới chế thực dân nửa phong kiến. Thì Tô Hoài cũng là một trong những tác giả để lại nhiều dấu ấn với những tác phẩm phản ánh rất rõ đời sống của nhân dân miền núi phía Bắc, đặc biệt là người phụ nữ dưới sự áp bức chà đạp của cả phong kiến cường quyền và thần quyền. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi tiếng nhất của Tô Hoài khi nói về đề tài này, ở đó không chỉ nêu ra được những giá trị hiện thực khi phản ánh bộ mặt thối nát của xã hội lúc bấy giờ, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc, thương cảm xót xa cho từng số phận bi kịch của con người dưới ách cường quyền.

Trước hết nói về giá trị hiện thực, ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là bức tranh về cuộc sống bị áp bức, chà đạp tàn bạo của những người nông dân thấp cổ bé họng, giống như Mị và A Phủ. Ở họ hội tụ đầy đủ những yếu tố của một con người xứng đáng có được hạnh phúc, ví như bản thân Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, hiếu thuận, có tài thổi sáo, thổi lá, đồng thời cũng có một tình yêu đẹp. Còn A Phủ tuy là một chàng trai có số phận bất hạnh, nhưng anh lại là người có ý chí, chăm chỉ lao động, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái ở Hồng Ngài. Ấy thế mà hai con người ấy một người chỉ vì món nợ truyền kiếp của cha, một người chỉ vì việc tranh chấp đánh nhau với nhà quan mà phải trở thành nô lệ, trở thành những công cụ làm việc biết nói, gần như vĩnh viễn chôn vùi cuộc đời tại nơi cửa quan, chịu đựng biết bao đắng cay tủi nhục.

Xem thêm  Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa (điểm cao)

Bi kịch của Mị xuất phát từ món nợ truyền kiếp của cha mẹ, cuối cùng cô phải chấp nhận làm con dâu gán nợ, để tận hiếu với cha, đau đớn đến độ muốn chọn cái chết bằng nắm lá ngón, Mị cũng không thể toại nguyện. Cuối cùng một cô gái đương phơi phới sức xuân, trở thành một người đàn bà lúc nào mặt cũng buồn rười rượi, quanh năm suốt tháng làm lụng, quên cả việc phải nói phải cười. Chai lì hết mọi xúc cảm và khao khát tự do, biến thành một con người lầm lũi như con rùa trong xó cửa, khổ đến mức độ “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, rồi thì cô còn tự ý thức được rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Không chỉ chịu đày đọa về thể xác mà ngay cả đời sống tinh thần Mị cũng phải gánh chịu nhiều giày vò. Cô bị ép gả cho người mình không yêu là A Sử, chồng Mị luôn cấm đoán, đánh đập và đối xử với Mị một cách tàn nhẫn, cuộc sống của Mị bị vây trong một con buồng tối có duy nhất một ô cửa bé bằng bàn tay mà “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đó là một cuộc đời cầm tù chung thân, Mị đã tuyệt vọng nghĩ rồi cô sẽ sống ở căn phòng tối tăm này cho đến chết thì thôi, chứ không còn một mối thoát nào khác. Sự chèn ép, đàn áp ấy đã khiến Mị trở nên trơ lì như gỗ đá, không còn một chút tha thiết gì về cuộc đời, làm tê liệt hết những sự phản kháng, tê liệt cả tuổi trẻ và tàn hoại một con người vốn xứng đáng nhận về hạnh phúc cho mình.

Bên cạnh Mị, A Phủ cũng là một nhân vật phải gánh chịu sự chà đạp, chèn ép đầy bất công và đáng căm hận từ bè lũ thống trị nhà thống lý Pá Tra. Chỉ vì một cuộc ẩu đả với A Sử mà cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một số tiền mà không biết được rằng đến hết đời này của A Phủ, rồi đến đời con đời cháu của anh có thể trả xong hay không. Như vậy chỉ từ một chuyện nhỏ, A Phủ đã phải vĩnh viễn chôn chân tại nhà kẻ thống trị, làm lụng như trâu, như ngựa, sống cuộc đời của một nô lệ để trả món nợ bất công.

Một nhân vật nữa dù chỉ xuất hiện thoáng qua, thế nhưng ông cũng là một nạn nhân phải chịu sự áp bức của cường quyền ấy là cha của Mị. Một người nông dân nghèo, vay tiền nhà thống lý để cưới vợ, làm lụng quanh năm suốt tháng để trả nợ, năm nào cũng trả một nương ngô, ấy vậy mà đến khi Mị đã lớn, người vợ đã chết, món nợ ấy vẫn còn. Chẳng có món nợ nào lại dai dẳng đến thế, chỉ có một điều là kẻ cầm quyền đã lợi dụng quyền lực của mình để bắt ép người nông dân, những người thấp cổ bé họng phải trả những món nợ không tưởng, cuối cùng phải trả giá cả bằng hạnh phúc của chính con cái mình. Đó là sự bóc lột, chèn ép đến tột cùng mà bè lũ phong kiến miền núi đã áp đặt lên những người lao động nhỏ bé, không có quyền được lên tiếng, cốt để thu về những món lợi vô nhân đạo.

Giá trị hiện thực thứ hai trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ ấy chính là sự tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn bạo, gian ác của bọn cường quyền phong kiến miền núi. Sự tàn bạo ấy thể hiện ở việc Mị bị bắt cướp về nhà thống lý cúng trình ma mà không được sự ưng thuận của cô, cho đến việc cuộc đời của Mị và những người phụ nữ trong ngôi nhà ấy quanh năm suốt tháng chỉ biết làm lụng, bị bóc lột đến tận cùng như trâu ngựa, thậm chí còn không bằng. Ấn tượng nhất là chi tiết Mị muốn đi chơi, ngay lúc đó A Sử trở về nó không nói không rằng đã túm tóc Mị rồi trói đứng Mị ở cái cột trong căn buồng tối, rồi bỏ đi chơi tiếp. Thật không dám nghĩ nếu như không phải vì A Sử bị thương, cần người đắp thuốc thì có lẽ Mị dã bị trói đến chết mà không ai hay biết, bởi lẽ trong ngôi nhà này đã từng có một người đàn bà phải chịu chết trói như vậy. Rồi ngay cả khi Mị tận tâm chăm sóc cho chồng, chỉ vì mệt quá nên thiếp đi, ấy thế mà A Sử đã thẳng chân đạp Mị ngã dúi dụi, có thể nói là độc ác và lạnh lùng đến vô cùng. Ở câu chuyện của nhân vật A Phủ sự tàn ác, bất nhân của bè lũ phong kiến miền núi lại càng được thể hiện rõ. Vụ việc ẩu đả giữa A Sử và A Phủ đã trở thành cái cớ, để chúng biến A Phủ thành một nô lệ trong nhàn quan, để có thể ra sức bóc lột. Một đám xử kiện, thế nhưng người ta chỉ thấy khói thuốc phiện ngập tràn, cùng với một loạt những lời định tội, tính tiền hệt những con buồn, cuối cùng khép A Phủ vào món nợ 100 bạc trắng, một số tiền mà không biết hết đời ở đợ của A Phủ đã trả hết hay chưa. Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó, trong một lần chăn bò, A Phủ lỡ để hổ vồ mất một con, và phải chịu bị trói đứng giữa sân, trong trời đông giá rét, chịu đói, chịu lạnh, mà có khi đôi ba hôm nữa sẽ phải chịu chết, một cái chết đầy oan ức. Như vậy chúng đã coi sinh mạng của A Phủ còn chẳng bằng một con bò bị mất, thật độc ác và bất công đến tột cùng, đến một người vốn ẩn nhẫn và cam chịu như Mị cũng không thể chịu nổi mà căm hận, xót thương cho cuộc đời của A Phủ.

Về giá trị nhân đạo, Vợ chồng A Phủ trước tiên là hướng tới việc cảm thông, thương cảm cho số phận những người nông dân phải chịu đàn áp, bất công như Mị và A Phủ, thông qua đó tố cáo, lên án mạnh mẽ chế độ cường quyền và thần quyền gian ác đã chèn ép, chà đạp, bóc lột không chỉ là sức lao động mà còn cả quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của họ. Bên cạnh đó là sự thấu hiểu, nhìn nhận được những phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn đáng quý ngự trị trong những người nông dân bị đàn áp. Ở Mị là sự xinh đẹp, chăm chỉ làm lụng, hiếu thảo với cha, tài năng thổi sáo, thổi lá, cùng với những khát khao, ước vọng được sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc tha thiết. Cùng với đó là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, ẩn sâu tiềm tàng bên trong lớp vỏ chai lì, vô cảm, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn, đau đớn đến nhường nào, nó vẫn chưa từng bị giết chết, hay bị lãng quên, chỉ là được Mị đem giấu đi thật kỹ, chờ ngày bùng nổ. Một vẻ đẹp tâm hồn đáng quý nữa ở nhân vật Mị ấy là tấm lòng thấu hiểu, đồng cảm cho những người cùng cảnh ngộ. Trong khi thấy A Phủ bị trói đứng đến chết, lòng Mị đã dấy lên sự phẫn nộ, căm tức, ý thức được sự bất công trong xã hội, cuối cùng dẫn đến hành động quyết liệt, dũng cảm là cắt dây cởi trói cho A Phủ, còn bản thân nàng nguyện hy sinh. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì giá trị nhân đạo của tác phẩm vẫn chưa đạt độ chín, chi tiết đắt giá nhất thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác phẩm ấy là cảnh Mị tự giải thoát cho chính mình, một người đàn bà đã sống cuộc đời lầm lũi suốt mấy năm trời ở nhà thống lý, đến chết cũng chẳng màng tới nữa, ấy vậy mà nay lại vùng lên bỏ trốn, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự chuyển biến ở tâm hồn của Mị, càng khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ và niềm khao khát tự do đến cháy bỏng của cô, mà dùng bất cứ giá nào Mị cũng chịu đánh đổi để có được nó.

Ở A Phủ, ngoài những vẻ đẹp ngoại hình, sự chăm chỉ cần mẫn, dám xông pha, thì một trong những chi tiết ấn tượng nhất về nhân vật này ấy là giọt nước mắt đêm đông, lúc anh bị trói đứng. Có thể nói rằng cuộc đời A Phủ chưa từng khuất phục, dù là lúc bị phạt vạ, phải đi ở đợ, nhưng anh vẫn luôn nỗ lực hết mình. Chỉ đến khi bị trói đứng vì một con bò, A Phủ mới bắt đầu thấy tuyệt vọng, thấy đắng cay tột cùng, giọt nước mắt ấy là sự xót xa, nuối tiếc cho một cuộc đời còn đang dang dở phía trước, là sự đau đớn khi khao khát được sống, được tự do đang dần lụi tàn trước mắt. Điều đó chứng tỏ bản thân A Phủ có một niềm khao khát sự sống và tự do chẳng kém gì Mị, anh muốn sống, muốn được hạnh phúc, thế nhưng phong kiến cường quyền và thần quyền đã dùng sợi dây trói định cắt đứt tất cả. Khóc không phải là yếu đuối mà là sự ý thức thân phận đớn đau, cũng là sự căm hận, uất ức trước những bất công mà A Phủ phải gánh chịu. Một điểm nữa để thấy được vẻ đẹp của A Phủ ấy là cảnh khi Mị vừa cắt dây trói, người đàn ông chịu đói chịu rét suốt mấy ngày đã khuỵu xuống, thế nhưng ngay lập tức dùng hết sức bình sinh để vừa chạy vừa lăn xuống triền đồi tẩu thoát, không do dự. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt là sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, dù chỉ còn chút hơi sức cuối cùng cũng không bao giờ từ bỏ, quyết nắm lấy từng cơ hội mong manh để tự giải thoát cho bản thân mình của nhân vật.

Như vậy với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, Vợ chồng A Phủ xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn sau cách mạng tháng tám. Nó không chỉ tập trung phản ánh, tố cáo bộ mặt thối nát, tàn ác của xã hội mà còn tập trung vào vẻ đẹp trong tâm hồn của con người, đồng thời khơi gợi, mở ra cho họ những lối thoát mới, cổ vũ người nông dân chịu áp bức mạnh mẽ đứng lên để tự giải phóng bản thân, đấu tranh đòi lại quyền bình đẳng, công bằng trong xã hội, manh nha cho phong trào làm cách mạng của đồng bào ở miền núi phía Bắc.

Lời bình về Vợ chồng A Phủ

Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”.

“ Thắp sáng ngọn lửa của khát vọng sống,Tô Hoài cũng làm bừng sáng giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm”.

Bài giảng: Vợ chồng A Phủ – Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên VietJack)

Xem thêm sơ đồ tư duy của các tác phẩm, văn bản lớp 12 hay, chi tiết khác:


Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Meraki Center với mục đích chia sẻ và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 0000 hoặc email: hotro@merakicenter.edu.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *